Một chiều dông gió (Kỳ II)

29/08/2020 20:54

(VHNT) - Theo Với thời gian Và điều kiện môi trường rồi VIẾT, Ma Văn Kháng đều có những truyện ngắn ở những VÙNG quê, cội nguồn khác, trong đó có truyện ngắn Một chiều dông gió này cảnh Và người thì có khác, song cái hồn Văn của Ma Văn Kháng thì Vẫn thế.

Truyện ngắn “Một chiều dông gió” của nhà Văn Ma Văn Kháng tuy cảnh Và người được miêu tả không có gì mới, chưa hiện đại, mới mẻ Về thời gian. Nhưng đọc Vẫn thấy hay, cứ hấp dẫn bạn đọc nhờ sự sâu sắc của chủ đề nhân ái Và kỹ thuật VIẾT truyện hay khiến người đọc thấy lại tài năng VIẾT truyện ngắn của Ma Văn Kháng từ mấy mươi năm xưa khi các tác phẩm của ông xuất hiện trên Văn đàn, phần lớn là truyện Với những Vấn đề, tả cảnh Và người của đồng bào VÙNG Tây Bắc đất nước, nơi ông từ quê hương Hà Nội lên dạy học Và công tác.

Theo Với thời gian Và điều kiện môi trường rồi VIẾT, Ma Văn Kháng đều có những truyện ngắn ở những VÙNG quê, cội nguồn khác, trong đó có truyện ngắn Một chiều dông gió này cảnh Và người thì có khác, song cái hồn Văn của Ma Văn Kháng thì Vẫn thế. Cái hồn Văn tình người của nhà Văn Ma Văn Kháng từ các truyện ngắn đã chuyển Vào các tiểu thuyết, đã tô đậm thêm sự tài danh, nổi tiếng của ông như: Đồng bạc trắng hoa xòe; Vùng biên ải; Gặp gỡ ở La Pan Tẩn; Mưa mùa hạ; Mùa lá rụng trong VƯỜN; Đám cưới không có giấy giá thú; Côi cút giữa cảnh đời; Chó Bi, đời lưu lạc; Ngược dòng nước lũ; Một mình một ngựa; Hồi ký Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương… Có lẽ do sự hấp dẫn mới của những tiểu thuyết mà Ma Văn Kháng lại được bạn đọc tìm đọc các truyện ngắn của ông

Đáp ứng xu hướng này của đông đảo bạn đọc, Thời báo Văn học Nghệ thuật xin đăng lại truyện ngắn “Một chiều dông gió” của Ma Văn Kháng Với niềm tin Và sự kỳ Vọng rằng: Truyện hay thì đọc đi đọc lại càng thấy hay.

Và không chỉ có Tua. Ký ức bừng sáng, Tần, Tuyền, Nhượng, Triệu, Hàn, An, Hợi... lần lượt trở thành kẻ xa lạ với chính mình. Hóa ra bọn họ đều là trai tơ. Nhận ra điều đó, tất cả bỗng trở nên vui vẻ, tươi mưởi, rộng rãi khác thường.

Một chiều đi làm về sớm, mọi người nhất loạt thanh toán hết lũ râu tóc vô kỷ luật. Lược in vết trên mái tóc ngắn có đường ngôi thẳng trắng hếu. Cái sân bóng chuyền ồn ĩ, chia hai bên thi đấu, vừa đủ mỗi bên sáu, cùng loạt may-ô trắng quần đùi xanh, không còn ai thừa để làm trọng tài mà Hợi ta lại là thằng đã hay ăn gian lại lắm lý sự cùn. Lần đầu tiên trong đời, các đấu thủ ở đây chơi bóng không chỉ là vui mà còn để người khác xem.

Người này là người mới đến. Vì người này mà từ nay chấm dứt hẳn việc ăn cơm lúi xùi ở trong bếp, hoặc mỗi anh một cặp lồng ngồi ăn ở bất cứ chỗ nào và ăn xong thì bát đũa, cặp lồng, tất thảy đút vào gậm giường để sắp đến bữa sau mới lôi ra lau rửa. Thức ăn, dẫu chỉ có rau dưa, củ lạc, con cá khô cũng dọn thành hai mâm đặt ngay ngắn trên một chiếc bàn đá dài. Nồi cơm lớn để ở đầu bàn, cơm trắng đánh tơi, thơm phức. Lần đầu tiên, người ngồi ăn tất thảy đều áo quần tinh tươm sạch sẽ, trịnh trọng đón bát cơm xới, lại ý tứ nhìn về phía đầu nồi như có ý cám ơn.

Ngồi đầu nồi là một phụ nữ tầm thước, mặt trái xoan tươi hồng, vai thon, ngực tròn, eo thắt, hông nở, đầy đặn nữ tính. Tay cầm cái quạt nan, như người mẹ, như người chị, như em gái nhỏ, người nọ phẩy hơi mát cho tất cả mọi người. Vui sướng tràn trề trong cặp mắt đen láy, vẻ tần tảo hiện hình ở lớp mồ hôi rịn nơi chân tóc, ở hai bả vai áo ướt đầm nổi hằn đường nét duyên dáng bí ẩn của vệt dây đỡ chiếc nịt ngực, người phụ nữ đưa đôi tay nhỏ nhắn đón đỡ kịp thời mỗi chiếc bát và thoát ra từ đôi môi xinh một tiếng nói hậu tình: “Để em xới ạ”.

Thốt nhiên, Tua thấy cay cay cánh mũi. Đưa mắt nhìn, anh nhận ra bạn bè đều chung một trạng thái rưng rưng: Ôi, hạnh phúc, đó là những cử chỉ thân ái, nhân hậu nho nhỏ hợp thành, xa lạ và quen thuộc biết bao!

- Ơ! Con ruồi! - Đột ngột, Hợi đặt bát cơm, vung tay chỉ một chấm đen vừa đậu xuống chiếc nút lá chuối ở chai rượu đặt giữa bàn. - Ông Tua, tôi cam đoan với ông, nó chính là con ruồi đực hôm rồi.

Bất giác, Tua đặt bát cơm, ngực hẫng một nhịp tim. May thay, con ruồi bẩn thỉu từ đâu bay tới đang mân mê chiếc nút chai rượu cất cánh bay vù lên. Nó bay lên cùng tiếng cười khóai trá của Hợi và câu chuyện tiếu lâm Hợi kể tiếp sau đó. Nhìn vòng bay của con ruồi, Tua đưa tâm trí trở lại đường bay kỳ ảo của con bướm vàng hôm rồi.

- Cô Thoa! Bữa nay cô cho chúng tôi món ăn rau sắn ướp chua xào tỏi, đặc biệt quá!

Lát sau, nhướng cặp mắt hai mí mở to về phía người phụ nữ đang đánh cháy rìa nồi, Tua cất tiếng. Và thấy chị nhỏn nhẻn cười, Tua liền kêu to:

- Kìa, cô cũng phải ăn đi chứ. Sao cứ ngồi xới cho chúng tôi mãi thế?

- Anh mặc em. Em ăn sau.

Người phụ nữ đáp khẽ, môi thóang một nét cười hoa, nhặt một miếng sém ở rìa nồi, nắm thành một nắm chim chim đặt lên chiếc đĩa trên mặt bàn.

- Em đi xuôi theo đường sắt xuống cách đây hai cây số, thấy một vạt đất mọc toàn sắn vàng. Hình như trước đây ở đó có một công trường. Em thấy có vườn rau. Em vun được mấy luống rau muống. Có cả một cây me già to tướng.

- Trước có một đơn vị bộ đội tham gia làm đường sắt ở đấy.

- Em thấy có một cái ao cạn.

- Hôm nào ta đi tát đi, anh Tua!

- Phải đấy, hôm nào anh em mình đi tát cá đi!

Văn  - Một chiều dông gió (Kỳ II)

 

Những tiếng nói hào hứng rộ lên quanh Tua. Tua đón bát cơm người phụ nữ đưa, đặt xuống, bỗng thấy má trái vương vướng một ánh nhìn mềm mại, liền quay lại và ho hó cái miệng tròn ngạc nhiên không nói nên lời. Một khuôn trăng đầy đặn vừa nhô lên sau những trảng cát trắng dịu, như một người khách lạ đang ngó nghiêng ngoài cửa, ánh mắt thật trìu mến, rụt rè.

- Thoa này! - Bỗng nhiên Tua nhìn người phụ nữ, giọng hạ xuống, trầm dịu xôn xang. - Tôi nhớ hồi tôi còn bé, bố tôi bế tôi đi chơi trong xóm, một chiều ông chỉ tay lên trời bảo tôi: “Ông trăng kia kìa, con”.

Tôi nhìn lên, thấy một khối vàng tròn đầy, lơ lửng, liền tụt khỏi tay bố, chạy tọt về nhà.

- Anh sợ à, anh Tua?

- Không hiểu! Bây giờ cũng vậy, lúc ấy cũng thế. Không hiểu tại sao tôi lại bỏ chạy!

- Đa cảm quá đấy!

Mặc Hợi bình phán và cười phá lên thô lỗ, người phụ nữ như dịch lại bên Tua, hai con mắt đẹp, thân thiết đậu lại như mãi mãi trên gương mặt gầy gùa của Tua và khẽ khàng:

- Anh ăn đi chứ, anh Tua.

* *
*

Chiều lồng lộng diệu cảnh cơn dông gió. Đêm mơ màng trong ánh trăng ngưng. Ngày đi qua ăm ắp sự kiện và ấn tượng. Một bữa cơm quây quần. Một hơi quạt phất. Một câu chuyện thời thơ ấu. Những tiếng gà lích rích ngoài hàng rào quây luống đất mới gieo hạt rau cải. Mảnh sân phong quang lụp bụp tiếng bóng rơi. Bóng hình người phụ nữ óng ả vào ra. Đời sống bỗng nhiên trở nên lạ lùng và khó hiểu, vì thực cảnh trộn lẫn với chiêm bao.

Người phụ nữ, cho đến giờ, vẫn là một hư ảnh nhòe mờ giữa hiện thực và ảo thể. Chưa một ai trong bọn họ, kể cả Tua trong vai cung trưởng, nhìn rõ gương mặt đẹp của chị. Người phụ nữ từ đâu đến, do ai giới thiệu đến, tất cả đều có câu trả lời chính xác, mà vẫn cứ mu mơ, lờ mờ.

Nhập vào đời sống cần lao của những người lao động khốn khổ ở cung đường này, chị biến hóa thành một bà mẹ, một người chị, một cô em gái, và cuối cùng kết tinh thành hình tượng một người đàn bà đẹp, có sức biến cải hoàn cảnh, khiến cả tá con người lao động như bừng tỉnh, nhận ra mình là những kẻ độc thân trẻ tuổi bấy lâu nay vẫn âm ỉ trong mình những khát vọng sống mà tự mình không biết.

Suốt sáu tháng liền đoạn đường sắt tồi tệ không xảy ra một sự cố, dù là nhỏ nhoi. Mười hai người thợ đều đạt danh hiệu lao động tiên tiến. Nhưng trên thực tế, họ đã trở thành những dũng sĩ, thiên thần lập những công tích kỳ lạ. Họ biến đổi âm thầm, tự mình không hay.

Nhưng cuối cùng thế là đã xảy ra một bước nhảy ngắt quãng. Một ngày nọ, tỉnh dậy lúc tinh mơ, mọi người nhận ra ở ngoài sân có cuộc cãi cọ gay gắt giữa Tua cung trưởng và gã con trai quá lứa tên Hợi:

- Tua ạ, nó là con đàn bà thì tôi mơ ngủ với nó cũng là lẽ thường tình. Chứ sao ông lại trách tôi?

- Ông Hợi ạ! Có những điều nói ra thì lập tức là thô bỉ.

- Nhưng ông có hiểu gốc gác lai lịch của nó không?

- Tôi không cần biết. Tôi chỉ cần biết, đó là Thoa.

- Hừ!

- Phải! Đó là Thoa. Thoa của chúng ta!

Gọi tên người phụ nữ, Tua cất cao giọng. Mọi người đều trở dậy bước ra sân và nhận ra, Tua như đang trở lại cơn cảm hứng xuất thần chiều dông gió nọ, như đang thấy lại cảnh tượng huy hoàng, niềm cao quý thiêng liêng của năm sắc cầu vồng và cái đẹp huyễn hoặc được hóa thân thành một cánh bướm vàng.

* *
*

Một ngày kia, con bướm vàng lại xuất hiện trong điệu vũ tung tăng, huyền ảo. Đến bây giờ thì mọi người đã biết rõ lai lịch, nguồn gốc của nó. Nó sinh trưởng ở chân núi Hoàng Liên Sơn. Nó là một giống bướm rừng xứ lạnh hiếm hoi vì độ lớn và sắc màu. Nó đã lọt vào vợt của một nhà côn trùng học và nằm khô cứng trong bộ sưu tập bướm rừng xứ lạnh của ông. Nhà côn trùng học nọ đáp tàu vào Nam. Tàu qua vùng này, ông mở hộp kính ép xác con bướm nọ ra xem. Tái sinh trong chốc lát nhờ một phép lạ, con bướm vẫy cánh ra khỏi hộp kính và bay thẳng đến với những người ở cung đường này.

Hôm nay, con bướm vàng theo thói quen lướt theo chiều dài của sợi dây phơi, nhưng nó không tìm được nơi đậu. Chỉ có mười hai bộ quần áo đàn ông, xanh bạc, cứng quèo, sặc mùi mồ hôi, tuyệt không một thoáng hương thơm.

Chiều đó bữa cơm vắng Hợi và Tua. Tận tối mịt mới thấy họ trở về, quần áo cả hai đều tơi tả và mặt mày họ đều hằm hè dữ tợn. Họ đã mắng mỏ chửi rủa nhau. Vì lý do gì? Mọi người xì xầm đoán chừng. Có lẽ sự thể liên quan tới việc mất biến chiếc nịt vú và bộ quần áo của người phụ nữ. Chiều hôm sau, sự việc lại lặp lại. Đi làm về, hai người gọi nhau ra bãi sim mua sau nhà và trở về với hai thân hình in rõ dấu vết của một cuộc ẩu đả dữ dội. Má Hợi, tím bầm. Mắt trái Tua sưng u.

Cả hai đều nhận từ đối phương những miếng đòn đau. Cả hai đều lử lả. Nhưng ngồi vào mâm cơm phần, vừa hết bát cơm thứ nhất, Tua đã vứt tạch đôi đũa, dựng dậy cả tấm thân lòng khòng, sườn nổi từng rẻ xương, chống nạnh, quăng quắc hai con mắt:

- Tôi yêu cầu chấm dứt trò thô lỗ hạ đẳng ấy. Đó là bệnh họan, chứ yêu đương cái gì. Trả quần áo cho người ta!

Nheo nheo con mắt đỏ ké thèm muốn nhục thể, Hợi từ từ đứng lên, nhếch mép:

- Chuột chù đòi có xạ hương, hả?

- Ông nói cái gì?

- Nói trắng ra, hạng ấy giỏi lắm cũng chỉ là cave hoặc gái bia ôm.

- Im đi!

- Thấy đỏ ngỡ là chín, hả? Mày nên nhớ loại ấy ở quanh các ga xe hoả có hàng vốc. Bọn phò phạch, bọn đĩ điếm đó, hiểu chưa?

- Câm ngay cái mồm mày lại!

- Mày sợ sự thật à?

- Tao cấm mày làm nhục cô ta. Mày đã làm cô ấy khóc, cô ấy đòi bỏ đi.

- Hứ, đĩ khóc, tù van, hàng xáo kêu lỗ, thế gian sự thường. Còn nó đòi bỏ đi mày có biết là vì sao không? Vì công an người ta cử người đi truy nã.

- Câm!

Xô ngay tới, tay trái túm cổ áo gã trai bợm bãi, cùng với tiếng thét như vỡ họng, Tua vung nắm đấm. Nắm đấm chắc nịch, dồn tích ở mỗi ngón tay co toàn bộ khí lực; nỗi căm hận, lòng tự trọng và tinh thần bảo toàn danh dự đã biến thành một năng lượng trừng phạt.

Cúi xuống, nhổ ra hai cái răng cửa gẫy và những hạt cơm chưa nuốt hết, ngẩng lên, môi miệng Hợi mếu xệch nhoe nhoét máu.

* *
*

Bữa cơm dọn sau một ngày nắng chảng. Gió lồng lộng đem cát bỏng đến vùi lấp cả một đoạn đường sắt dài hơn cây số. Cả đội mệt rã rời vì công việc, vì cái nóng lửa lò, vì bỗng nhiên thấy người cứ như bã nhủn ra, không còn hơi sức. Trên cái bàn đá rộng chỉ có một nồi cơm cháy lên tận mép nồi và một đĩa cá khô nướng, con nào cũng ngoác miệng như quái vật. Nồi cơm không có người đánh tơi. Mỗi người cầm bát tới, vục vào nồi, khoét một vầng, rồi gắp một con cá, đoạn ngồi xây lưng lại bàn ăn, nhìn ra ngoài.

Bốn bề trơ trống như thiếu hụt nơi hội tụ. Cái dây phơi thưa thớt mấy chiếc áo, mấy cái quần đàn ông vắt xiêu vẹo, chăng chớ, ướt sũng nước.

Miếng cơm nhai trệu trạo trong miệng. Tua lừ lừ con mắt nhìn quanh. Tua đã chẳng còn là Tua hôm qua và bạn đồng nghiệp, những kẻ dưới quyền y cũng hoàn toàn giống y, kể cả Hợi, gã con trai hư đốn. Tuổi trẻ bỗng nhiên như rời bỏ họ, một sớm mai trở dậy, tất cả đều rậm rì râu ria, già sọm hẳn đi. Ngày vui như một ánh chớp ngắn ngủi, như một cơn dông hạ nhiệt thóang qua. Giấc mơ đã có ý tưởng, cuộc sống đã được đánh thức, nhưng đã buột ra khỏi tay nắm.

Tất cả đều là thật mà không sao nắm bắt được, vì đó là ánh sáng, là ngọn gió, là cái vô hình vô ảnh. Khúc đứt gẫy phũ phàng làm lộ toẹt cái hiện trạng bị che lấp bao lâu nay, khiến con người rơi vào trạng thái chưng hửng bẽ bàng và tủi hổ; sự mỉa mai giễu cợt với những số phận bị đóng đinh vào hẩm hiu sao mà quái ác vậy!

Bỏ bát cơm, Tua ngồi như như hoá đá, đen thui một khúc xương khô gộc ghệch. Tách ra khỏi tất cả, đóng kín các cánh cửa giao tiếp, Tua hoàn toàn biệt lập. Giờ đây, Tua mới nhận ra nỗi thống khổ đối với sự mất mát một hy vọng, sự thiếu vắng niềm vui giao tiếp với cái đẹp, còn muôn lần dai dẳng, đớn đau hơn, nếu so với cơn đói khát của dạ dày, cơn mệt mọc của cơ bắp. Giờ đây, y nhận ra sâu sắc hơn bao giờ hết, cái đời sống bọn y phải cam chịu, một đời sống nghèo nàn, không ấn tượng, không gia đình, không tình yêu, trong chế dục, tưởng là im lìm vô cảm, nhưng hóa ra luôn ở sát làn ranh của những cơn rối loạn tâm thần!

Cuối cùng, Tua đã đứng dậy, nhìn quanh. Tua nhận ra, không trừ ai, tất cả bạn bè Tua cũng đều đang bối rối như Tua. Hóa ra cuộc sống luôn là sự thức tỉnh và chẳng có gì là mất đi, dù là một ánh chớp nhỏ. Nhưng, hình như Tua không quan tâm lắm đến điều ấy. Hai con mắt y đỏ bầm như vừa bị ăn đấm. Y vung tay và giọng y bỗng trở nên hung dữ, cộc cằn vô cùng.

- Này, nghe đây. Có đúng là lúc các cậu về nghỉ trưa đã không thấy cô ấy không? Sao, vẫn thấy quần áo cô ấy phơi? Thế ai trực nhật nấu ăn? Có đúng là người của bên công an huyện đến hỏi không? Hừ! Hừ! Không thẻ như thế được! Không thể như thế được! Như thế là vô lý hết sức! Vô lý hết sức!

Lử lử đi đi lại lại, Tua tiếp tục quát tháo, rồi đột ngột tiến đến sát người này, người nọ, khiến họ phải im thít và giật lui, vì trông mặt y hung dữ thế, thì bất cứ ai lúc này cũng có thể bị y coi là thằng Hợi bệnh họan chưa biết chừng.

- Ai, kẻ nào nói cô ấy là con bớp? Là điếm trốn cải tạo? Là đứa con gái chuyên nghề chôm chỉa? Ai? Ai? Có giỏi thì ra đây đối chất với tôi. Ai? Ai?

Hất cái cằm nhọn như một mũi thương lên, y nghiến răng kèn kẹt, rồi sáp mặt vào người này, người khác, y gầm ghì:

- Tôi cấm! Tôi cấm không được nói xấu người ta! Ai không nghe tôi, tôi không để yên đâu. Nhất định tôi không để yên đâu!

Rồi giữa cái im lặng của mọi người, y lệt xệt đôi chân trần trên sỏi đá, một mình đi giữa khoảng sân rộng. Đưa hai con mắt ra bốn bề mênh mông, bỗng như nhìn thấy cảnh tượng lạ lùng dông gió chiều nào, y giơ hai cánh tay gầy lên cao, cất tiếng gào thật lớn, thật ai oán, não nề:

- Các người có mắt mà không có con ngươi! Các người mù loà cả rồi! Mù loà hết cả rồi! Mù loà hết cả rồi!

Truyện ngắn của Ma Văn Kháng

>>> Một chiều dông gió (Kỳ I)

Bạn đang đọc bài viết "Một chiều dông gió (Kỳ II)" tại chuyên mục THƠ. Mọi bài vở cộng tác xin gọi hotline (0969.989 247hoặc gửi về địa chỉ email (thoibaovhnt@gmail.com).