Khi nhà văn đến với cách mạng

02/09/2020 21:11

(VHNT) - Đại chiến thế giới thứ 2 bùng nổ. Sau thất bại của Mặt trận Bình dân ở Pháp, ở nước ta, Mặt trận Dân chủ Đông Dương do Đảng Cộng sản lãnh đạo đã rút vào hoạt động bí mật. Nhật nhảy vào Đông Dương. Dưới ách áp bức của Pháp và Nhật thân phận của người dân một cổ hai tròng càng thêm điêu đứng.

Hòa vào các hoạt động của các tổ chức khác trong Mặt trận Việt Minh dưới sự lãnh đạo của Đảng, Hội Văn hóa Cứu quốc được thành lập vào tháng tư 1943 tại Hà Nội.

Đây là một tổ chức gồm các văn nghệ sỹ yêu nước tự nguyện chiến đấu cho độc lập dân tộc với những hội viên nhà văn đầu tiên là Học Phi, Như Phong, Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyên Hồng, Nam Cao.

Sau cách mạng, những người này trở thành nòng cốt trong các lĩnh vực nghệ thuật và Hội phát triển thêm nhiều hội viên khác.

Nhớ lại những hoạt động thời kỳ tiền khời nghĩa để thấy rằng ngay từ khi Đảng ta còn hoạt động bí mật, những nhà văn sau này trở thành những tên tuổi lớn trong nền văn học cách mạng vốn là những người từ thực tiễn sống và viết của mình đã sớm nhận ra con đường đấu tranh giành độc lập cho Tổ quốc, no ấm cho nhân dân lúc bấy giờ, chỉ có thể là con đường cứu nước do Đảng lãnh đạo.

Và không do dự khi họ chọn cách mạng làm hướng đi cho cuộc sống, cũng là cho nghiệp bút của mình, dẫu các nhà văn này có khác nhau về quan niệm nghệ thuật.

Có lẽ trừ Nguyễn Đình Thi - một hình mẫu nhà văn trưởng thành từ cách mạng - còn tất cả các hội viên sáng lập này đều đã có tác phẩm có tiếng vang trên văn đàn. Đó là thời kỳ mà những hoạt động tích cực của mỗi một thành viên đã góp phần vào thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945. Như Phong (cùng Học Phi và một vài đồng chí khác) được Đảng giao nhiệm vụ xúc tiến thành lập Hội Văn hóa Cứu Quốc, hoạt động và tham gia khởi nghĩa ở Hà Nội. Học Phi tham gia dành chính quyền ở Hưng Yên rồi được cử làm Chủ tịch lâm thời Ủy ban tỉnh.

Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi được cử vào đoàn đại biểu của Hội Văn hóa Cứu Quốc đi dự Đại hội Quốc dân ở Tân Trào và Nguyễn Đình Thi được cử vào Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam.

Nam Cao tham gia khởi nghĩa ở quê nhà, làm Chủ tịch xã. Nguyên Hồng, tham gia biên tập tạp chí Tiên Phong và cũng như Tô Hoài, ông tham gia khởi nghĩa ở Hà Nội...

Có thể gọi đó là những năm tháng không thể nào quên trong cuộc đời cầm bút của một lớp các nhà văn. Nguyễn Đình Thi mang học vấn và nhiệt tình tuổi trẻ của mình sôi nổi trong các hoạt động và bài Diệt phát xít ra đời ngay sau khi cách mạng thành công.

Sau này đã trở thành nhạc hiệu của buổi phát thanh thời sự trên Đài Tiếng nói Việt Nam mà mỗi khi nhạc hiệu nổi lên, lòng mỗi người đều cảm thấy náo nức bởi các cung bậc cảm xúc, như được sống lại không khí bi phẫn, hào hùng, được thấy khí thế, sức mạnh tinh thần của một dân tộc khi ý Đảng với lòng dân gặp gỡ.

Nguyễn Huy Tưởng ngay sau ngày Cách mạng thành công có tùy bút Ngày mùa viết về cuộc hồi sinh của đất nước và lòng người khi ông trở lại thăm quê. “Ôi chim muông, đồng ruộng, người và vật và làng xóm, ta lại về đây. Tuổi ta đã lớn, tính tình ta đã khác nhưng ta vẫn nguyên vẹn lòng hồn nhiên của kẻ quê mùa. Ta chào mừng ở các người và cả ở ta đây một cuộc hồi sinh vĩ đại”.

Góc nhìn - Khi nhà văn đến với cách mạng

Các văn nghệ sĩ dự Hội nghị Chấp hành mở rộng Hội Văn nghệ Việt nam tại Việt Bắc tháng 3/1951. Ảnh từ phải sang, hàng trước Nam Cao, Nguyên Hồng, Kim Lân

Năm 1946, vở kịch Bắc Sơn “mở màn cho sân khấu cách mạng” ra đời đã dựng lại được không khí một cuộc khởi nghĩa của quần chúng trong quá trình đấu tranh của dân tộc. Hoài Thanh có Dân khí miền Trung mà ông gọi đó là cuộc “tái sinh màu nhiệm”.

Nguyễn Tuân, nhà văn tiêu biểu cho khuynh hướng lãng mạn thời kỳ cuối với cái “tôi” tài hoa độc đáo, đã hào hứng tham gia cách mạng “mê say với ánh sáng trắng vừa được giải phóng, tôi là một dạ lữ khách không mỏi, quên ngủ của một đêm phong hội mới”, có Ngày đầy tuổi tôi cách mạng.

Với Nam Cao, người đã từng chứng kiến cảnh chết đói không chỉ ngoài xã hội mà còn cả với cô con gái Bình Yên mất vào năm đỉnh đói vì bị kiết lỵ mà không có thuốc chữa lúc ông đang thất nghiệp ở Hà Nội, đã trăn trở: “Ta sẽ chết hay là làm gì, làm gì để dành quyền sống của con người?” thì chính là với những hoạt động trong Hội Văn hóa Cứu quốc, ông nhận ra “Cách mạng đã đổi hẳn óc mình.

Kháng chiến chẳng những làm già dặn thêm khối óc đã đổi mới kia mà còn thay đổi ngay chính thân thể mình” (Nhật ký Ở rừng) và khỏi phải nói hết niềm sung sướng của ông, hai năm sau: năm 1947, nơi chiến khu Việt Bắc, ông đã vinh dự được trở thành Đảng viên.

Khi toàn quốc bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, Nam Cao cùng với Tô Hoài, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân... tham gia phong trào Nam tiến, sau đó trở ra Bắc, tiếp tục hoạt động một thời gian rồi chuyển lên chiến khu Việt Bắc.

Xuân Diệu “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” - từng quan niệm “là thi sỹ nghĩa là ru với gió/ Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây” đã tham gia khởi nghĩa ở Hà Nội và trong năm đó có luôn tráng ca Ngọn quốc kỳ, sau đó ít lâu là tập bút ký Hội nghị non sông.

Sau khi tham gia kháng chiến, ông chủ trương thơ phải “Chân chân chân, Thật thật thật” chỉ với suy nghĩ rằng đấy là con đường ngắn nhất để thơ đến với người lao động, như mấy chục năm sau ông đã viết “Tôi cùng xương thịt với nhân dân của tôi..”..

Có thể nói, với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, thành tựu lớn nhất của Đảng là giải phóng được nhân dân ta khỏi ách nô lệ hơn 80 năm của thực dân Pháp, đánh đuổi được phát xít Nhật và bọn Tàu Tưởng ra khỏi bờ cõi nước ta.

Và, cách mạng với sức hút diệu kỳ đã thu phục được một đội ngũ đông đảo những trí thức văn nghệ sỹ tài năng đồng cam cộng khổ, hết lòng vì cách mạng để rồi tiếp tục đồng hành với Đảng và nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ.

Đương nhiên, nhà văn sống bằng tác phẩm và tác phẩm là nơi thể hiện rõ nhất sức sáng tạo của mỗi người. Cuộc sống ngột ngạt đầu những năm bốn mươi với hơn hai triệu người chết đói ở miền Bắc năm 1945 và sự bùng nổ của cách mạng tháng Tám không chỉ là sự kiện có ý nghĩa trong lịch sử của dân tộc mà còn là nguồn cảm hứng sáng tạo cho một số nhà văn vốn quen với bút pháp hiện thực, gắn bó nghiệp văn của mình với cách mạng và kháng chiến.

Nam Cao có một tuyên ngôn khá nổi tiếng Sống đã rồi hãy viết mà rất tiếc là ông đã hy sinh quá sớm khi những dự định chưa kịp hoàn thành.

Bản thảo Sống mòn với tên khởi đầu là Chết mòn viết năm 1944 đã cho thấy được Nam Cao đã thể hiện một cách chân thật, tài tình cảnh sống hết sức cùng cực của một tầng lớp trí thức tiểu tư sản nghèo trước cách mạng - tấn bi kịch tâm hồn của những con người sống cuộc sống quẩn quanh, bế tắc, tù đọng mà người đọc thấy rõ nhu cầu phải thay máu đối với xã hội đang đặt ra là cấp thiết.

Nhu cầu đó còn được Nguyên Hồng thể hiện đặc sắc trong một số tác phẩm viết trước cách mạng của ông như Cuộc sống, Hơi thở tàn, Miếng bánh, Vực thẳm, Địa ngục và Lò lửa... mà tên gọi cũng đã rất ám gợi một cuộc sống thực sự là bi kịch đời người.

Những năm tháng bi thương, ngột ngạt rồi hào hùng nhất trong lịch sử dân tộc ít nhiều đã được ghi dấu trong hồi ức, kỷ niệm của những nhà văn đi theo cách mạng trong cuốn Cách mạng, kháng chiến và đời sống văn học của Viện Văn học tiến hành từ những năm tám mươi. Tuy nhiên, bề thế nhất với quy mô là những bộ tiểu thuyết sử thi: Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi và Cửa biển của Nguyên Hồng.

Góc nhìn - Khi nhà văn đến với cách mạng (Hình 2).

Một cuộc họp của văn nghệ sĩ ở Việt Bắc kháng chiến chống Pháp

Từ khi dự định cho đến khi ra đời trọn bộ hai tập là hơn hai mươi năm (1948-1970), có thể nói Vỡ bờ là tác phẩm quan trọng nhất, tâm huyết nhất trong nghiệp văn của Nguyễn Đình Thi, cũng là nơi ông gửi gắm tình cảm của mình đối với Cách mạng.

Với ngót trăm nhân vật, hoạt động ở Hải Phòng, Hải Dương, Hà Nội Nguyễn Đình Thi đã khắc họa một cách sinh động những năm bi thương nhất nhưng cũng hào hùng nhất: từ chiến tranh thế giới thứ hai đến khi cách mạng thành công, bằng những tình cảm xúc động của tác giả đối với cách mạng, nhân dân, cuộc đời và nghệ thuật, bằng vốn sống của những ngày hoạt động từ khi còn là sinh viên, bằng năng lực của một nghệ sỹ cầm bút tài năng trong việc tổ chức các tuyến nhân vật gắn với các biến cố lịch sử.

Tương tự là Nguyên Hồng. Với bộ Cửa biển 4 tập (Sóng gầm, Cơn bão đã đến, Thời kỳ đen tối, Khi đứa con ra đời) gần 2.000 trang viết được bắt đầu từ năm 1961 cho đến năm 1976, ông “đã tổng hợp thành công các yếu tố sử thi, trữ tình và kịch” khi dựng lại một cách công phu, sinh động và tràn đầy cảm hứng cần lao bối cảnh xã hội chủ yếu là ở Hải Phòng, Hà Nội, Nam Định nửa đầu những năm bốn mươi lịch sử ấy.

Tác phẩm đã huy động thế mạnh của một ngòi bút am hiểu sâu sắc về cuộc sống của người dân nghèo thành thị, về cảnh sắc Hải Phòng, vốn sống của ông về những ngày hoạt động cách mạng để thể hiện con đường đến với Đảng, với cách mạng là một tất yếu của những người yêu nước bất kể ở tầng lớp nào.

Bảy mươi lăm năm đã trôi qua nhưng nhìn lại cảm xúc, đường đi của một lớp văn nghệ sỹ theo cách mạng và kháng chiến, ta càng hiểu sức mạnh của lòng yêu nước trong mỗi con người một khi được khơi lên, thắp sáng.

Sự kiện lịch sử cách mạng tháng Tám thành công, nước nhà Độc lập và cuộc chiến đấu chống thù trong giặc ngoài tiếp ngay sau đó... đã trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều thế hệ, từ những người trong cuộc đến các thế hệ chống Pháp, chống Mỹ, cả những nhà văn sinh ra khi chiến tranh đã kết thúc.

Từ khi bước sang thế kỷ mới, đề tài lịch sử trở thành vùng đất đầy tiềm năng có sức hấp dẫn đối với những nhà văn muốn tìm lại dưới “mặt đất” ấy những di chỉ văn hóa của một thời mà khoảng thời gian trước và sau cách mạng thật sự lý thú đang mời gọi.

Gần đây nhất, hai cuốn Đường về Thăng Long của Nguyễn Thế Quang và Gió bụi đầy trời của Thiên Sơn tham dự cuộc thi tiểu thuyết 2015-2020 của Hội Nhà văn là những góc nhìn khác nhau của hai thế hệ về tuổi tác đối với sự kiện lịch sử này.

Cách mạng với sức hút diệu kỳ đã thu phục được một đội ngũ đông đảo những trí thức văn nghệ sỹ tài năng đồng cam cộng khổ, hết lòng vì cách mạng để rồi tiếp tục đồng hành với Đảng và nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ.

Tôn Phương Lan

Bạn đang đọc bài viết "Khi nhà văn đến với cách mạng" tại chuyên mục THƠ. Mọi bài vở cộng tác xin gọi hotline (0969.989 247hoặc gửi về địa chỉ email (thoibaovhnt@gmail.com).