Kỷ niệm 200 năm ngày mất Đại thi hào dân tộc - Nguyễn Du

17/08/2020 13:23

(VHNT) - Tháng 9 này, tròn 200 năm ngày mất của đại thi hào Nguyễn Du. Đây thật là một dịp thích hợp để hậu thế, một lần nữa “trả lời” câu hỏi đau đáu của Đại thi hào lúc sinh thời: “Bất tri tam bách dư niên hậu – Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?” (Ba trăm năm nữa trong thiên hạ - Ai người ngồi khóc Tố Như Lang?)

Sự nghiệp thơ của Nguyễn Du chia làm 2 phần: 1. Thơ chữ Hán: “Thanh Hiên thi tập”, “Nam trung tạp ngâm”, “Bắc hành tạp lục”. 2. Thơ chữ Nôm, mà Truyện Kiều là kiệt tác.

Nguyễn Du để lại “khoảng” 400 bài thơ chữ Hán. Nói “khoảng” là vì nhiều khi, với cùng một tên bài, ông viết nhiều kỳ (Ví dụ bài “Điệu hát Trúc Chi viết ở Thương Ngô”, có những 15 kỳ). Đó thật là một di sản lớn.

Qua thơ chữ Hán, nhân sinh quan, thời thế, gia cảnh, hành trạng, tình cảnh và tình cảm của ông hiện ra rõ mồn một. Có thể nói, đời Nguyễn Du dường như “chồng khít” lên thơ chữ Hán của ông vậy.

Ta biết, Nguyễn Du xuất thân “Danh gia vọng tộc”. Thân phụ Nguyễn Du, Nguyễn Nghiễm đỗ Hoàng giáp năm 1732, làm quan đến Tể tướng, Đại Tư không, Thái tử Thiếu bảo, tước Xuân Quận công. Nguyễn Nghiễm có 8 vợ, 21 con (12 con trai). Con cả là Nguyễn Khản, từng làm đến Tham tụng dưới trướng Chúa Trịnh. Kế đến là Nguyễn Điều, Đốc học Sơn Tây. Sau khi Nguyễn Nghiễm mất, các bà vợ, mẹ nào cưu mang con nấy! Dinh cơ ở Tiên Điền bị Tây Sơn phá sạch (Vũ Tuân Sán và Mai Quốc Liên cho rằng, “gió Tây” trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du, ngoài ý nghĩa là “gió Thu” như trong kinh điển, nhiều chỗ còn có thể hiểu là, “gió Tây Sơn”! Có vẻ không hoàn toàn vô lý?).

Bạn đọc  - Kỷ niệm 200 năm ngày mất Đại thi hào dân tộc - Nguyễn Du

Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du

Đại gia đình Nguyễn Nghiễm - Nguyễn Du tan tác! Nguyễn Du được Nguyễn Nễ gửi về Quỳnh Hải - Quỳnh Côi - Thái Bình ở với bạn mình là Đoàn Nguyễn Tuấn khoảng 10 năm. Đoàn Nguyễn Tuấn gả em gái cho Nguyễn Du. Sau, cả Nguyễn Nễ và Đoàn Nguyễn Tuấn đều làm quan nhà Tây Sơn. Nguyễn Nễ làm đến Hàn lâm Thị thư, Đông các Đại học sĩ, gia tặng Thái sử, tước Nghi Thành hầu, rồi ra Tham tán Quân vụ Quy Nhơn. Đoàn Nguyễn Tuấn làm Hàn lâm Trực học sĩ. Cả hai từng tham gia sứ bộ Quang Trung “giả” sang Thanh năm 1790.

Nguyễn Du lúc trẻ được tập ấm một chức quan võ nhỏ nhà Lê ở Thái Nguyên. Có lẽ vì thế mà trong thơ
ông, ta thấy mấy lần xuất hiện các hình ảnh: “tráng sĩ”, “đoản kiếm”, “trường kiếm”. Ví dụ, Bạc đầu, tráng sĩ ngó trời than (Tạp ngâm - Ngâm vặt, kỳ 1; Kiếm dài, lại cậy trời xanh giúp - Mà lội trong bùn ba mươi năm (Khất thực - Đi ăn xin); Dở dang thư kiếm cơn cùng quẫn (Tự thán - Than thân, kỳ 2); Thời loạn trông gươm, lòng những thẹn (Lưu biệt Nguyễn Đại Lang - Lưu lại buổi chia tay bác cả Nguyễn); Tráng tâm cùn cả sang đoản kiếm (Tạp ngâm - Ngâm vặt)...

Sau 10 năm ở Thái Bình (“Mười năm gió bụi”: 1786 - 1795), Nguyễn Du về quê, sống ở vùng Hồng Lĩnh, viết “Nam trung tạp ngâm”. Đến khi Tây Sơn đổ, Nguyễn Ánh lên (1802) và triệu các quan lại cũ của nhà Lê ra làm việc, ông lần lượt nhận các chức: Tri huyện Phù Dung (Hưng Yên), Đông các Đại học sĩ (ở Huế), Cai bạ Quảng Bình. Sau khi làm Chánh sứ đi Trung Hoa về, ông được thăng Tham tri Bộ Lễ (nhưng ông, trong thơ, tỏ ra không mặn mà gì với việc làm quan, thậm chí còn thấy ông luôn “than thở” về nó nữa!).

20 tuổi, đang ở Thăng Long, ông phải về Quỳnh Côi - Thái Bình “chạy loạn”, ở đậu ăn nhờ! Sau, dù có làm rể nhà bạn của anh mình, thì Nguyễn Du vẫn chỉ coi nơi này là “đất khách” và mình là kẻ “tha hương”! Mặt khác, đời sống vật chất và tinh thần của ông trong những năm này, không thể so với thời ông ở Thăng Long với quan Tham tụng Nguyễn Khản được.

Nguyễn Du viết: Hồng Lĩnh, anh em đều ly tán - Bạc đầu, năm tháng chất sầu thêm (Quỳnh Hải nguyên tiêu - Đêm rằm tháng Giêng ở Quỳnh Hải); Danh phận chưa thành, sức đã suy - Gió lùa tóc bạc, bóng chiều đi (Tự thán - Than thân, kỳ một); Ở mãi, quên mình là khách trọ - Đếm năm, ta đã thật già rồi - Đất khách, vụng vờ phòng kẻ tục - Giữ thân thời loạn, tránh mặt người (U cư - Ở nơi vắng vẻ, kỳ một); Xa quê, gió bụi mười năm trọn - Tóc bạc bơ phờ trong cửa người (U cư - Ở nơi vắng vẻ, kỳ hai); Một kiếp quăng thân vào gió bụi - Trọ cậy, ăn nhờ khắp bể, sông (Mạn hứng, kỳ một); Ta chân không rễ, tựa bồng trôi - Túi rỗng, Nam xô Bắc dạt rồi (Mạn hứng, kỳ hai); Sắc xuân nào đến giữa đêm đen - Song hẹp, âm u liễu trước thềm - Xa nhà, bệnh đến luôn kinh sợ - Gió mưa, xuân sắc lại tàn thêm - Đất khách, bên đèn thường rơi lệ - Trăng quê, ngàn dặm vẫn trong tim (Xuân dạ - Đêm xuân); Hồng Lĩnh anh về, giờ có chủ - Tôi già, vô dụng, thiếu quê hương - Phượng xác xơ lông trong lồng hẹp - Công danh trơn tuột như rắn luồn (Tống Nguyễn Sĩ hữu Nam quy - Tiễn bạn Nguyễn Sĩ về Nam); Ngàn dặm, thân cô nằm đất khách - Sân ngập lá vàng đưa Thu về (Thu chí - Thu đến); Biển Nam, đất khách, nằm bệ rạc - Đêm thanh thèm chuyện, lấy ai nghe?... Giữa đám phong trần , da bọc cốt - Tóc bạc bơ phờ phủ gối khuya (Trệ khách - Người khách bệ rạc) v.v...

Tinh thần bất hợp tác với Tây Sơn của ông thể hiện rất rõ trong bài “Đạo ý” (Nói chí mình): Trăng soi vào giếng cổ - Nước giếng cổ phẳng lỳ - Không có người lay chuyển - Lòng này không sân si - Ví có người lay chuyển - Tĩnh tâm tìm ngay về - Lòng này luôn vằng vặc - Như giếng này, trăng kia; Suốt đời nghĩ khác phường ruồi nhặng - Mối nào chung tổ được cùng ta (Tạp ngâm - Ngâm vặt). Mùa đông năm 1796, Nguyễn Du toan trốn vào Gia Định để giúp Nguyễn Ánh. Việc bại lộ, ông bị tướng Tây Sơn là Thận Quận công bắt giam. May mà ông này vốn là bạn Nguyễn Nễ, lại tiếc tài thơ Nguyễn Du, nên chỉ giam ít tuần rồi tha.

Nguyễn Du viết về việc này: Chung Tử chỉ đàn theo Nam cung - Tiếng Việt, khi đau, Trang Tích dùng... Ta khóc tình nhà, than thế nước - Mười tuần hạ ngục cũng cam lòng (My trung cảm hứng - Cảm hứng trong tù). Thế là, ông cam lòng ở tù, thà đi giúp Nguyễn Ánh chứ không giúp Tây Sơn! Cũng vì trong mắt ông, Nguyễn Ánh chỉ muốn phục hồi vị thế chúa Nguyễn, bao đời thần phục nhà Lê; chứ không như Tây Sơn xưng đế và đặt niên hiệu trị vì. Vả lại, các chúa Nguyễn đã chẳng “mở nước” về Nam vĩ đại thế kia sao? (Trớ trêu! Gia Long rồi cũng đâu có phục Lê? Ở chỗ này, có vẻ như ông hơi giống Quan Vân Trường - “Hàng Hán, không hàng Tào”?).

Thời gian ông sống ở Hồng Lĩnh, tuy vẫn nghèo nhưng tinh thần đã dần lạc quan hơn: Mắt thấy việc đời như mây nổi - Lưng đeo trường kiếm, gió Thu rơi - Chuyện thầm với trúc ngoài sân vắng - Sương tan, rồng sẽ hiện lên thôi (Ký hữu - Gửi bạn); Thời nhàn không xa đâu - Hẹn trung châu tái ngộ! (Biệt Nguyễn đại lang - Chia tay bác cả Nguyễn). Thậm chí có lúc ông nghiêng một chút về Lý Bạch dù ông vẫn luôn nhận Đỗ Phủ là “thầy”: Đời mấy ai trăm tuổi - Hãy vui trong xuân thì - Đừng quanh năm bần tiện - Việc ngập mày ngập mi... Cứ dắt chó săn bắn - Cùng nghiêng bầu rượu ngon - Trước mắt còn khó biết - Chết, mặc danh mất còn! (Hành lạc từ, kỳ nhất - Bài ca rong chơi, kỳ một); Hoa chẳng đẹp trăm ngày - Không ai trăm tuổi cả - Giữa bao cuộc đổi dời - Phù sinh, chơi cho thỏa! - Trong tiệc, kỹ nữ xinh - Trong vò, sóng sánh rượu - Khoan nhặt theo nhịp tiêu - Cất tiếng lòng muôn điệu... Hiền hay ngu cũng thành nấm đất thôi - Ải sống chết, chưa ai người qua được - Xin nghe tôi, nâng chén mà vui chơi - Mặt trời lặn song Tây, ngày cạn cuộc! (Hành lạc từ, kỳ nhị - Bài ca rong chơi, kỳ hai); Trẻ gõ sừng trâu chiều nội cỏ - Thiếu nữ buông gầu, giếng ngọc reo - Ước nhảy khỏi vòng phù thế được - Dưới tùng, thỏa thích chí tiêu dao (Sơn thôn - Xóm núi); Hương xạ thơm trên vầng cỏ biếc - Chó lao vào núi, sủa phong thanh - Trần thế, mỗi người vui một vẻ - Mặc ai xe lọng chốn đô thành (Liệp - Đi săn)...

Thời thế lúc ấy vào trong ông mà sinh tình: Thềm ngọc mười năm mờ cát bụi - Bắc thành, một nửa hóa gò hoang - Trùng nhát, chim hèn bay hết cả - Càn khôn nhơ nhớp máu nhân gian - Binh lửa, trông quê ngàn dặm khóc - Bạn bè, thân thích ít thư sang - Thu nhạt, cá rồng bơi lặng lẽ - U hoài trăm mối, đập không tan (Bát muộn - Đuổi sầu); Nhớ xưa, cha cáo lão về quê - Xe bồ, ngựa tứ đón cha về - Thuyền tiên xô nước như rồng đấu - Tàn lọng ngang trời tựa hạc phi - Từ thuở xiêm y người khuất bóng - Đôi bờ sương cỏ ngậm sầu bi - Đời có trăm năm, bao chuyện xót - Tràng An khác lắm với xưa kia! (Giang Đình cảm tác - Bến Giang Đình, cảm xúc mà viết ra).

Kể cả khi làm quan triều Nguyễn, con người ông vẫn vậy và “quan cảnh” của ông ở tân triều cũng chẳng vui gì! Tiêu biểu cho thời làm quan này là bài “Thu chí - Thu đến”, viết ở Huế : Hương Giang, trăng một phiến - Cổ kim treo gọi sầu - Cỏ buồn trên mộ cũ - Thu mới, ta bạc đầu - Thân gầy như thân lính - Lưng khom không vì đau - Bến Lam Giang nhìn lại - Thấy mình thua bạch âu. Ông, tuy được Gia Long triệu vào kinh (Đông Quân chọn) nhưng triều thần nhà Nguyễn (Dì Gió) thì luôn nghi kỵ, lạnh nhạt, sẵn sàng “cạn tình” với ông: Hoa đào chớ cậy Đông Quân chọn - Dì Gió bên hoa dễ cạn tình (Ngẫu đề công quán bích - Ngẫu hứng đề thơ trên tường công quán).

Bị “phân biệt đối xử” vì từ Bắc vào, nhìn một người khách bộ hành ở Huế, ông viết: Thương thay cho một khách bộ hành - Nón tàn, áo nát, mặt thì xanh - Tránh người, chỉ chọn ven đường bước - Biết khách Tràng An mới nhập thành (Ngẫu hứng, kỳ năm) - ông viết về ông hay ai, thì đều thật não lòng! Không não lòng sao? Khi đọc ông: Bắc dải Hoành Sơn, mười con đói - Hoàng thành, thân bệnh nằm một nơi - Bạn bè thường bảo ta hay mộng - Nhưng ai ngoài mộng ở trên đời? (Ngẫu đề - Đề thơ ngẫu hứng); Chim ở trong lồng, ta cũng vậy - Làm sao tìm nổi thuở thanh thơi? - Đã nhậm quan xa, đừng than thở - Đất nào cũng đất của vua thôi! (Tân Thu ngẫu hứng - Ngẫu hứng viết trong mùa thu mới).

Bài “Tặng nhân - Đề tặng một người”, có lẽ nói rõ nhất mong muốn của ông khi còn vướng quan trường : Xóm vắng ẩn sau dòng nước biếc - Cao nhân đóng cửa nằm an cư - Giấc mộng kinh bang giờ đã nguội - Tần Tùy thuộc hết, sẵn thi thư - Bạn với mây Xuân cùng nai hoẵng - Giục cháu con mau gặt lúa mùa - Những muốn từ quan về theo bác - Dưỡng già với rượu, với đàn xưa!

Không ở đâu nhân sinh quan Nguyễn Du bộc lộ rõ như ở những bài thơ viết trên đất Trung Hoa trong “Bắc hành tạp lục”. Ở đó, mọi sở học của ông đều có thể tung hoành : Sự am tường lịch sử, văn hóa - thi ca Trung Hoa, nghệ thuật làm thơ Đường luật, những giá trị Nho gia chính thống, sự phong phú của chữ nghĩa, sự nhạy cảm - tinh tế của một nghệ sĩ lớn... giúp ngòi bút ông khoát hoạt hơn, gấm hoa hơn. Có lẽ cũng còn vì viết về Trung Hoa ở Trung Hoa, ông không phải e dè gì hết - không ngại cả “Đông Quân” lẫn “Dì Gió”. Ông dùng tràn trề ba yếu tố quan trọng nhất của cổ thi (Tình - Cảnh - Sự) để viết.

Nguyễn Du “bênh” Hoàng Sào, cho rằng nhà Đường, chỉ vì một việc nhỏ (tướng mạo xấu xí - đánh trượt Hoàng Sào) mà đẩy một người tài thành kẻ làm đảo lộn cả quốc gia: Tiểu - Đại Hoa Sơn nào xa mấy - Dấu tích Hoàng Sào khắp bến sông - Ai biết đất Tần, ngôi Kim Thống - Là người thi trượt, về tay không - Việc lớn hỏng vì câu nệ nhỏ - Đường cùng, đảo lộn cả non sông - Muốn hỏi chuyện người muôn năm trước - Nhà thuyền nghe đấy, giả như không!

Nguyễn Du thương người hát rong mù Trung Hoa, hát cả buổi, cho đến khi “Mép bọt, tay chùng” mà chỉ được 5 - 6 đồng bạc lẻ, trong khi khách thuyền thì cơm canh thừa thãi vứt đi. Rồi ông nhận xét: Thường nghe phương Bắc phong lưu - Ngờ đâu có cảnh trớ trêu thế này (Thái Bình thành ngoại mại giả ca - Ông lão hát rong ở ngoại thành Thái Bình). Thật không khác gì Đỗ Phủ xưa (Cửa son rượu thịt bỏ ôi - Bao người đói rét xương phơi ngoài đường!).

Kính trọng và thương xót Khuất Nguyên, ông viết: Nghìn thuở gọi hồn, hồn chẳng lại - Thuyền đua chật bến cũng không màng... Có về, hồn chẳng nơi nương tựa - Rắn, rồng, quỷ quái khắp nhân gian! (Ngũ nguyệt quan cạnh độ - Tháng Năm, xem đua thuyền); Vườn “Đức” vắng Người hai ngàn năm - Vẫn vương hương cỏ với hương lan - Đứt ruột, ba năm đày khỏi nước - “Sở từ”, vạn cổ vẫn huy hoàng - Sông lắm giao long, hình cốt mất - Hoa cỏ càng thơm dọc bãi hoang - Hút mắt không nhìn ra dấu cũ - Lá vàng theo gió vượt sông Tương! (Tương Đàm điếu Tam Lư Đại phu - Đến Tương Đàm, viếng Tam Lư Đại phu, kỳ 1); Oan hồn nước Sở chìm nơi này - Mênh mang khói sóng tận chân mây - Nếu Sở Hoài Vương dùng “Hiến lệnh” - Lấy đâu thơ với “Sở từ” đây? - Người xưa say cả, mình ông tỉnh - Lòng trung biết gửi đến tay ai? - Giờ họ theo ông, ăn mặc lạ - Hoa lan của họ khác ông thay! (Tương Đàm điếu Tam Lư Đại phu - Đến Tương Đàm, viếng Tam Lư Đại phu, kỳ 2); Hồn ơi! Hồn hỡi! Sao không về? - Bốn phương còn có chốn nào đi?... Thành quách như xưa, dân chúng khác - Bụi bay, bẩn hết mớ quan y - Ra ngáo nghênh xe, vào vênh váo - Đứng ngồi bàn suốt chuyện Cao, Quỳ - Che nanh dấu vuốt, ôm nọc độc - Rồi xé thịt người ngọt thế kia - Có thấy Hồ Nam trăm châu huyện - Dân gầy, không một kẻ phương phi... Từ lâu, ai chẳng là Ngân Thượng - Sông nào chẳng hóa Mịch La kia - Giao long không nuốt, hùm sói nuốt - Hồn ơi! Hồn hỡi! Về làm chi! (Phản chiêu hồn).

Bài thơ lại làm ta nhớ đến Đỗ Phủ (Có thấy Sơn Đông, trăm châu huyện - Cỏ ngập đồng hoang, thưa người về)! Ông ngắm non sông nước Sở, quê hương Khuất Nguyên, và viết : Ngàn dặm Kinh - Tương, đô Sở cũ - Một nửa sông ôm, một nửa hồ - Giàu mạnh đổ vào cơn bách chiến... Nước cuốn vương mưu với bá đồ - Đâu đất Tôn đòi, Lưu không trả? - Giờ xanh um cỏ giữa hoang vu! (Sở vọng - Trông vời đất Sở).

Đến Hoàng Hạc lâu ngắm chiều Hán Dương, ông hoài cổ để khen thơ cổ nhân: Dấu xưa vương bá mờ năm tháng - Hán Thủy đêm ngày mải miết xuôi - Bên đứng núi Rùa, bên núi Hạc - Lầu cũ, tiên đi, chẳng bóng người - Thơ làm cỏ dại thơm thiên cổ - Chiều xuống, lòng nào không xa xôi? - Cái ngày sáo thổi trên lầu ấy - Bãi đầy tần trắng, liệu hồng phơi (Hán Dương vãn diểu - Ngắm cảnh chiều Hán Dương). Ngày trước, Lý Bạch “gián tiếp” khen thơ Thôi Hiệu: Cảnh bày trước mắt mà ngọng nghịu - Thôi Hiệu đề thơ trên đầu rồi! (Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc - Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu), “nay” Nguyễn Du “trực tiếp” khen thơ Thôi Hiệu: Thơ làm cỏ dại thơm thiên cổ. Khen thơ người khác như hai ông, xưa nay không nhiều!

Qua Thương Ngô, nhìn núi Cửu Nghi, nơi an táng vua Ngu Thuấn, Nguyễn Du không thể không có cảm hứng với chuyện, khi Thuấn mất trong cuộc tuần du, hai bà vợ (Nga Hoàng và Nữ Anh - con gái vua Nghiêu) ra bờ sông Tương, vừa gảy đàn 25 dây (Nhị thập ngũ huyền cầm) vừa khóc, nước mắt hai nàng rơi xuống dây dàn, bắn lên rặng trúc bên bờ và từ đó, trúc sông Tương có hoa trắng lốm đốm rất đẹp, người ta chẻ trúc ấy làm mành, gọi là “Mành Tương”, và ông viết: Ngu Thuấn tuần Nam không trở lại - Trúc xanh đọng mãi lệ Anh Nga - Chuyện cũ ngàn năm còn để dấu - Sử ký hiện hình trước mắt ta (Thương Ngô tức sự - Gặp cảnh mà viết ở Thương Ngô). Cũng đề tài ấy, ông còn viết “Thương Ngô mộ vũ” (Mưa chiều Thương Ngô), “Thương Ngô Trúc Chi ca, kỳ tam” (Điệu hát Trúc Chi viết ở Thương Ngô, kỳ 3). Một chuyện tình buồn - đẹp như thế, viết một lần sao được!

Lại nhớ, ông đã từng ngậm ngùi trước số phận một “tú nữ” Trung Hoa khác: Tây Hồ, vườn cảnh hóa gò hoang - Bên song, đọc văn xưa viếng nàng - Tú nữ, chết còn gieo thương tiếc - Lửa thiêu, thơ sót một vài trang - Oán hận xưa nay, trời khôn hỏi - Xin cùng nhập hội với kỳ oan - Ba trăm năm nữa, trong thiên hạ - Ai người ngồi khóc Tố Như lang? (Độc Tiểu Thanh ký - Đọc bài văn viếng nàng Tiểu Thanh).

Đến đài Đồng Tước, xưa Tào Tháo cho xây và hẹn sau khi đánh Đông Ngô, sẽ bắt Nhị Kiều (vợ Tôn Sách và vợ Chu Du) về đó hầu hạ mình, Nguyễn Du mỉa mai: Đâu còn Ngụy Đế nơi này - Chỉ còn Đồng Tước ngày ngày bên sông - Nền cũ đã theo dòng nghiêng lở - Gió lạnh gào trên cỏ tàn Thu... Người ấy thịnh, nào ai dám chống - Xem thường vua, bất trọng vương hầu - Đài cao, hận lại càng sâu - Kiều nữ bạc đầu vẫn của Chu Lang! (Đồng Tước đài - Đài Đồng Tước).

Rồi ông viết về Hạng Vũ, Liêm Pha, Lạn Tương Như, Chu Du, Lý Bạch, Nhạc Phi, Tần Cối v.v... và v.v..., cũng với nhân sinh quan ấy.

Có thể nói, ở mảng đề tài viết về “Tình, Cảnh, Sự” Trung Hoa, nhiều bài thơ của Nguyễn Du có thể xếp lẫn vào thơ hay Đường - Tống!

Đỗ Trung Lai

Bạn đang đọc bài viết "Kỷ niệm 200 năm ngày mất Đại thi hào dân tộc - Nguyễn Du" tại chuyên mục PHÊ BÌNH - LÝ LUẬN. Mọi bài vở cộng tác xin gọi hotline (0969.989 247hoặc gửi về địa chỉ email (thoibaovhnt@gmail.com).