Mỗi lời dạy đơn giản của Bác đều là bài học lớn

02/09/2020 20:46

(VHNT) - Chính phủ nhân dân cách mạng lâm thời - Chính phủ lâm thời, ta quen nói gọn thế, là hoá thân tự nhiên của Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam do Đại hội Quốc dân Tân Trào lập ra để lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa.

Cách mạng Tháng Tám thành công. Chính phủ lâm thời họp phiên đầu tiên tại Bắc bộ phủ, trong phòng khách “điện nội” của Thống sứ Pháp xưa kia, của cố Khâm sai gần đây đại diện Chính phủ Bảo Đại - Trần Trọng Kim tại Bắc Bộ. Phòng rộng, lộng lẫy nhung lụa và đèn chùm pha lê, nhìn sang “Nhà Băng Đông Dương” sừng sững khối đá hoa cương.

Hà Nội thuở ấy còn hai lâu đài nữa, nguy nga hơn: Phủ Toàn quyền trong vườn Bách thảo và “Cung Công lý” cạnh “Nhà đá Hoả Lò”. Cả bốn lâu đài hợp lại, tượng trưng cho nền thống trị thực dân. Thêm vào là “Nhà hát lớn Thành phố”, mà dân ta gọi là “Nhà hát Tây” tụ điểm văn nghệ của các quý quan Thượng quốc.

Bỗng Bắc Bộ Phủ đổi chủ.

Ngồi đó hôm nay là 15 vị Bộ trưởng áo vải, đa số từ chiến khu chân đất trở về Thủ đô. Họ khoác bộ áo Âu phục thùng thình, có vị mới được đồng bào “ủng hộ”. Trừ một vị cao niên vẫn cái khăn xếp và áo the dài cổ kính: Cụ Nguyễn Văn Tố - mang tên hiệu trìu mến “ông Phán Men” mà nhân dân tặng cho. Không phải vì “ma men” ám ảnh. Mà là vì suốt năm, từ nhà riêng ở phố Vải Thâm đến nơi làm việc khá xa, gần Đồn Thuỷ, ông cứ cuốc bộ trên hè phố, men sát mặt tiền các nhà trên hè phố.

Các vị Bộ trưởng “nhân dân” an toạ xung quanh chiếc bàn dài gỗ mun, trải tấm dạ xanh. Vài người rì rầm. Không khí nghiêm trang khác thường. Chiếc đồng hồ treo, khung chạm trổ, gõ tám tiếng trịnh trọng vừa dứt thì cánh cửa một phòng hé mở, ông Đổng lý văn phòng Hoàng Minh Giám khẽ nói: “Cụ Hồ Chí Minh”, rồi rời nhanh chỗ ngồi. Cửa phòng mở rộng, Cụ Chủ tịch Chính phủ lâm thời hiện ra.

Một ông già thon thon, quần áo kaki màu vàng nhạt, cổ áo cài khuy, chân bọc trong đôi giầy vải đen, êm. Mặt gầy, trán cao, râu đen, dài, thưa, điểm vài sợi bạc, đôi mắt lóng lánh sáng như gương: “Nguyễn Ái Quốc đấy!”, tôi nghĩ thầm. Mừng, điểm chút ngạc nhiên. Một giây nhớ lại tối hôm đầu tháng, vừa đến Chiến khu, mong ước được gặp Người. Nhưng hôm đó Người còn mệt, anh Tống nói thế.

Văn  - Mỗi lời dạy đơn giản của Bác đều là bài học lớn

 

Cũng lại nhớ, ngay chiều hôm qua thôi, khi bước lên cầu thang phía sau Bắc Bộ Phủ, tôi thấy thoáng lưng một ông cụ già, bận áo chàm màu dưa, đi theo mấy anh bảo vệ dẫn Cụ tới cuối hành lang, Cụ ngoái đầu lại, thì thầm câu gì đó, rồi anh bảo vệ đẩy nhẹ Cụ vào buồng. Sau, trở lui, gặp tôi, anh rỉ tai: “Ông Ké Cao Bằng”. Tôi yên chí ông cụ là một bạn thân của Cụ Hồ Chí Minh, biết tin Cụ về Thủ đô thì vội tới thăm.

Kia kìa: cũng dáng dấp ấy, cũng gương mặt ấy, Người đang bước tới. Chúng tôi đứng bật cả dậy, kính cẩn. Người thoăn thoắt, ung dung, dang hai cánh tay, mời tất cả ngồi xuống. Rồi khai mạc luôn: “Chào các Ngài Bộ trưởng. Chúc sức khoẻ. Tôi xin lỗi, vào hơi chậm... Ta bắt đầu làm việc nhỉ? Thời gian gấp rút, tôi đề nghị đầu tháng 9, Chính phủ ta ra mắt quốc dân và đọc Tuyên ngôn Độc lập.

Tôi đã chuẩn bị, đưa bản thảo để các vị xét duyệt. Đề nghị duyệt kỹ. Vì ta đọc không phải chỉ để đồng bào cả nước ta nghe, mà còn cho cả Chính phủ Pháp và nhân dân Pháp, cho cả các nước Đồng Minh nghe”. Thật là ngắn gọn và gợi ý đầy đủ! Một cán bộ văn phòng chuyển đến các bản đánh máy, đặt từng bản trước mặt mọi người. Chúng tôi chăm chú xem từng câu, từng chữ, rồi suy nghĩ... Ai cũng thấy hay quá, sáng sủa, chắc nịch, đơn giản mà hùng hồn, đanh thép, chỉ thêm bớt vài ý nhỏ, sửa mấy chứ lặt vặt; sau đó mọi người ký vào bản của mình, theo yêu cầu của Chủ tịch.

Tôi đã tranh thủ vào lúc tạm nghỉ, đến nói nhỏ với anh Hoàng Minh Giám xin hộ với Chủ tịch cho tôi được “yết kiến” Cụ Chủ tịch lúc nào đó vào ngày mai, vì có chuyện gấp ở Bộ Giáo dục, mong được Cụ Chủ tịch chỉ giáo... May quá, khi mọi người đã ra về, thì anh Giám báo tin là Cụ sẵn sàng cho tôi gặp ngay lúc này, ở phòng làm việc của Cụ, cuối hành lang. Tôi vội chạy tới. Cụ đã đợi ở cửa. Một phòng nhỏ xíu, vừa là phòng làm việc, vừa là phòng ngủ: một bàn nhỏ, hai ghế tựa, một kệ sách báo, một giường hẹp, gỗ tạp, chiếu cói, màn sô.

Tôi trình Cụ Chủ tịch: anh em sinh viên rất nóng lòng muốn biết ngày Chính phủ mở cửa lại các trường Đại học và tổ chức thi tốt nghiệp kỳ hai. Các sinh viên đã đỗ kỳ 1 thì xin được Chính phủ công nhận và cấp bằng. Cụ Chủ tịch tươi cười tán thành yêu cầu của sinh viên, còn ngày giờ và cách thức cụ thể thì tuỳ Bộ quyết định. Bắt tay tôi tạm biệt, Hồ Chủ tịch còn dặn với, nên lo ngay việc giải quyết nạn mù chữ cho đồng bào nghèo.

Sự ủng hộ mau lẹ của Người đối với mấy điều tôi vừa xin làm tôi phấn khởi vô cùng vào cái buổi ban đầu tôi phục vụ Cách mạng ấy!

Kháng chiến chống Pháp, nhắc với nhau về kỷ niệm gặp Bác Hồ lần đầu tiên, chúng tôi đều thống nhất nhận xét và cảm tưởng. Anh Lê kể hồi tháng 3/1945, anh được Trung ương giao trách nhiệm lên Cao Bằng đón Bác về Tân Trào… “Bác mặc một bộ đồ màu chàm, trông như một ông già người Nùng, trông hiền lành, phúc hậu quá.

Tuy đã được mấy đồng chí sống gần Bác tả diện mạo, phong thái Bác, tôi vẫn không thể nào ngờ cụ già đó lại chính là đồng chí Nguyễn Ái Quốc, một lãnh tụ nổi tiếng mà từ khi Người còn ở nước ngoài chúng tôi đã nghe nói, bàn nhau, mường tượng hình ảnh của Người”. Đúng như tôi (Vũ Đình Hòe) nghĩ khi thoáng thấy Hồ Chủ tịch bước vào phòng họp ở Bắc Bộ Phủ trên đây.

Anh Lê kể tiếp:

“Chỉ được sống gần Bác ít ngày ở Cao Bằng, mà tôi đã thấy biết bao nhiêu điều mới mẻ, mỗi lời dạy đơn giản của Bác đều là bài học lớn đối với chúng tôi. Ví dụ về tinh thần cảnh giác, giữ gìn bí mật, Bác căn dặn: giấy tờ không để vương vãi, bếp phải làm xa nơi ở, nấu xong phải dọn dẹp ngay không để khói, cả đến vệ sinh cá nhân, đào lỗ cũng không để dấu vết lạ, địch sinh nghi... Phải nói Bác có tài hoá trang. Khoảng cuối 1944, một máy bay Mỹ bị Nhật bắn rơi, phi công phải nhảy dù xuống địa phận Hoà An - tỉnh Cao Bằng, ta bắt được. Biết tin này, Bác chỉ thị đưa phi công Mỹ đến gặp Bác. Mọi người có vẻ băn khoăn. Bác rất điềm tĩnh. Bác đóng vai một người lính già đã từng tham chiến ở nhiều nơi và biết được hoàn cảnh những người lính Mỹ. Viên phi công hết sức ngạc nhiên, phấn khởi, nhưng anh ta không hề biết là đang được tiếp chuyện với vị lãnh tụ tối cao đã từng đến tận nước Mỹ chứng kiến những gì mà họ vẫn khoe là văn minh hiện đại”.

Văn  - Mỗi lời dạy đơn giản của Bác đều là bài học lớn (Hình 2).

 

Tôi xen vào câu chuyện: “Và chắc viên phi công ấy càng không thể hiểu được vị lãnh tụ tối cao kia lại nói năng bình dị như thế, hệt là một bác nông dân mặc áo lính, mà có trình độ hiểu biết già dặn khác thường, vì đã lăn lộn tiếp xúc với đủ loại người cầm súng tham gia trận mạc”.

Câu chuyện Lê Giản đã được Bác Hồ dạy bảo tỉ mỉ về vấn đề bảo mật phòng giam gần đây tôi đọc lại trong Hồi ký của anh cũng gợi cho tôi nhớ lại lời Bác xét nét mấy anh em bạn tôi quen lối sống thành thị, ỷ lại, lười nhác đối với các việc tưởng như lặt vặt, không đáng để ý. Đã có lần mấy người chúng tôi được ngồi ăn cùng mâm với Bác. Ăn xong, buông đũa buông bát ung dung bước ra khỏi bàn, thì Bác gọi lại, khẽ bảo: “Các chú giúp Bác một tay với”.

Bác đang thu gọn bát đũa, mỉm cười: “Lao động nhẹ một tí, đỡ việc cho nhà bếp!” Nhớ rằng trước khi vào ăn Bác thường liếc qua các đĩa thịt cá thấy có thể thừa so với số người ăn, thì Bác mượn thêm cái đựng, xẻ bớt thức ăn để riêng ra chỗ khác, nói nhỏ với anh em mình: “Để người ăn sau khỏi phải ăn thừa!”

Những chuyện vui vui về Bác có thực như vậy, đều lan truyền nhanh trong số anh em trí thức ở Hà Thành đang trong chờ ngày đón Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau ngày Tổng khởi nghĩa.

Được nhìn thấy Người: “bằng thịt, bằng xương”, được đọc trước bản thảo của Người viết Tuyên ngôn Độc lập, lại được nghe những chuyện vui vui về Người, tôi cảm thấy sung sướng quá, thấm thía vô cùng. Nên tôi cố diễn tả sự xúc động ấy với Phan Anh, sau bữa cơm tôi mời anh tới nhà dự cùng với hai anh Tô và anh Văn vào cuối tháng Tám - 1945.

Trong lúc ăn, Phan Anh kể lại chuyện anh mang thông điệp từ chức của Chính phủ Trần Trọng Kim từ Huế ra Hà Nội để phổ biến cho các tỉnh trưởng trên hành trình của anh, nhưng đến Hà Tĩnh thì ở đấy Cách mạng đã cướp chính quyền rồi, v.v... (xem lại trên kia, bài phỏng vấn của Tonnesson).

Hai anh Tô và anh Văn cùng cho biết vể tình hình sức khỏe của Chủ tịch Hồ Chí Minh, gợi hình ảnh quý báu về Người, làm nức lòng anh Phan Anh. Tuy anh Phan không hỏi và hai anh Tô, Văn cũng ra vẻ muốn tránh nói đến lai lịch vị chủ tịch khả kính, nhưng ai cũng đoán được rồi. Phan Anh chỉ khéo léo gợi ý về mới liên tục của phong trào yêu nước muôn màu, muôn vẻ công khai, bí mật giữa hai cuộc chiến tranh thế giới.

Anh nhấn mạnh về sự rung động trái tim của anh khi còn theo học nội trú ở trường Trung học Bảo Hộ, anh được một bạn cùng phòng ngủ đưa lén vào tay anh một buổi tối kia, quyển sách nhỏ viết bằng tiếng Pháp “Le Procès de la colonisation française” (Bản án chế độ thực dân Pháp). Suốt ba đêm liển, anh đã “tự giam” trong phong “toa lét” để “ngốn” cuốn sách “vĩ đại” đó. Thật là: “Cái thuở ban đầu lưu luyến đây. Ngàn năm chưa dễ đã ai quên!”

(Tôi rỉ tai chàng Phan).

Hai anh Tô và Văn chỉ cười.

Sau bữa cơm đạm bạc (chỉ có độc một món “thỏ xi-vê”) nhưng đầy ý vị, hai ông khách quý kia cáo từ trước. Tôi giữ Phan Anh ngồi lại, tỉ tê với nhau thêm. Tất nhiên tôi khoe với anh nỗi vui mừng vô hạn của tôi hôm họp Chính phủ lâm thời, lần đầu tiên được gặp Bác. Phan Anh bắt chặt tay tôi, đồng thời ngâm câu “Kiểu lẩy”: “Đến bây giờ mới thấy đây”… Cướp lời, tôi lẩy tiếp luôn: “Mà lòng đã chắc những ngày một hai".

Vũ Đình Hòe

Bạn đang đọc bài viết "Mỗi lời dạy đơn giản của Bác đều là bài học lớn" tại chuyên mục ĐỐI THOẠI. Mọi bài vở cộng tác xin gọi hotline (0969.989 247hoặc gửi về địa chỉ email (thoibaovhnt@gmail.com).